Vảy nến là bệnh lý ngoài da thường bùng phát mạnh nhất vào mùa thu và mùa xuân. Tuy không ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng nhưng lại ảnh hưởng không ít nhiều tâm lý và thẩm mỹ của người bệnh. Bởi vậy người bệnh dieu tri vay nen cần có những kiến thức về những phương pháp điều trị, điển hình là những loại thuốc điều trị đến bệnh
1.
Thuốc điều trị tại chỗ bệnh vẩy nến
Corticosteroids (diproson, diprosalic, betnovate,
dermovate...): Thuốc có tác dụng giảm viêm, giảm quá trình chuyển hoá của tế
bào da và ức chế hệ miễn dịch nhưng không được dùng kéo dài vì dễ gây biến chứng
như teo da, rạn da...
Calcipotrience (daivonex): Thuốc dạng tổng hợp của
vitamin D3 có tác dụng khống chế tốc độ sừng hoá của da trong bệnh vảy nến, vay phan hong .
Không bôi thuốc lên mặt và bộ phận sinh dục, thuốc có thể gây kích ứng da.
Retinoid (tazorax) dạng gel hoặc cream là dạng tổng
hợp của vitamin A, bôi tại chỗ tác dụng không nhanh như corticosteroids nhưng không có biến chứng như
corticosteroids. Tuy nhiên thuốc có thể gây kích ứng da. Dùng phối hợp với corticosteroids hiệu
quả sẽ tốt hơn. Lưu ý thuốc có nguy cơ gây quái thai nên phụ nữ trong tuổi sinh đẻ nhất thiết phải
tránh thai khi dùng thuốc này.
Coaltar (dầu than đá): một số xà phòng, dầu gội đầu
có chứa coaltar (polytar liquid). Sử dụng dầu gội đầu, tắm có tác dụng bong vảy,
sạch da nhưng kém hiệu quả hơn corticosteroids. Thuốc có mùi hôi, làm bẩn da và
quần áo nên không phổ biến với các bệnh nhân.
Salisylic acid dạng mỡ, kem, gel 2%, 5% có tác dụng
bạt sừng mạnh thường được dùng phối hợp với corticosteroids, coaltar hiệu quả
điều trị sẽ cao hơn.
2.
Thuốc điều trị toàn thân
Được chỉ định cho những trường hợp vảy nến thể nặng
(đỏ da toàn thân, thể khớp, thể mủ) và phải có sự theo dõi chặt chẽ của thầy thuốc tại bệnh viện như:
Methotrexate: ức chế hệ miễn dịch làm chậm quá trình
phân bào. Thuốc có 2 dạng uống và tiêm, không dùng cho người bị bệnh gan, phụ nữ
có thai vì thuốc có hại cho tế bào gan và máu, có thể gây quái thai.
Retinoid (soriantane, tigason) là một dạng của vitamin A acid được chỉ định cho các trường hợp trị vảy nến nặng.
Cyclosporine là thuốc ức chế miễn dịch làm chậm quá
trình phân bào của tế bào da do vậy nhanh chóng làm sạch vảy, được chỉ định cho
các trường hợp nặng, kháng lại các phương pháp điều trị khác. Thuốc gây độc cho
thận và gây tăng huyết áp, do vậy bệnh nhân phải được theo dõi điều trị tại bệnh
viện.
Alefacept (amevie) và etanercept (enbrel) là chế phẩm
sinh học cũng có tác dụng rất tốt với bệnh vảy nến
3.
Quang hoá trị liệu gồm các liệu pháp sau:
Tắm nắng: Trong ánh nắng có tia cực tím (UV), khi hấp
thụ vào da có tác dụng ngăn chặn tiến triển của bệnh, làm giảm viêm, chậm quá
trình sừng hoá.
UVB (tia cực tím nhóm B): Liệu pháp này có hiệu quả
tốt cho vảy nến thể nhẹ và thể trung
bình và những thương tổn kháng lại liệu pháp tại chỗ. Hiện nay ứng dụng UVB với
bước sóng hẹp hiệu quả điều trị sẽ cao hơn.
PUVA (phối hợp thuốc uống proralen và tia cực tím
nhóm A): UVA (tia cực tím nhóm A) có bước sóng dài được hấp thu sâu hơn UVB còn
proralen làm cho da tăng nhạy cảm với ánh nắng.
Hiệu quả của
PUVA cao hơn UVB, tuy nhiên liệu pháp này có một số tác dụng phụ như đau
đầu, mệt mỏi, nóng rát và ngứa. Bệnh nhân sau khi uống proralen nên đeo kính
râm và tránh ánh nắng trong 2 ngày. Tuy nhiên nếu điều trị PUVA kéo dài sẽ có
nguy cơ ung thư tế bào gai và u hắc sắc tố da. Phối hợp PUVA với uống retinoid
hiệu quả điều trị sẽ tốt hơn.